“Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - Những bằng chứng lịch sử” - Kỳ 1: Công cuộc khám phá, chinh phục và xác lập chủ quyền của Việt Nam trong thư tịch cổ.

Thứ bảy - 26/10/2013 15:06   Đã xem: 845   Phản hồi: 0

Các nhà nước Việt Nam từ thời kỳ quân chủ cho đến thời kỳ hiện nay đã khai phá, xác lập, thực thi và bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và những vùng biển đảo khác trong Biển Đông. Đó là một quá trình lịch sử lâu dài, liên tục và được ghi nhận trong nhiều nguồn tư liệu của Việt Nam và nước ngoài, đặc biệt là những tư liệu thành văn và tư liệu bản đồ được công bố ở Việt Nam và các nước khác trên thế giới, kể cả Trung Quốc, suốt từ thế kỷ XVI đến nay.

Nhabaothainguyen.vn xin cung cấp cho bạn đọc những bằng chứng vững chắc về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Sách Đại Việt Sử ký toàn thư ghi lại lời vua Lê Thánh Tông (1442-1497) nói với các quan phụ trách biên cương đứng đầu là Thái bảo Kiến Dương bá Lê Cảnh Huy vào thánh Tư năm 1473 như sau:

“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự tiện vứt bỏ đi được. Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ để họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương Bắc bày tỏ rõ điều ngay lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di”.

Sách Phủ biên tạp lục do Lê Quý Đôn biên soạn vào năm 1776 viết về Hoàng Sa và hoạt động của Đội Hoàng Sa thời chúa Nguyễn như sau:

“Xã An Vĩnh huyện Bình Sơn phủ Quảng Ngãi giáp liền với biển. Ở vùng biển xa về phía đông bắc có nhiều đảo núi, các núi lẻ tẻ kế tiếp nhau nhiều đến hơn 130 ngọn. Giữa các ngọn núi là biển, đảo núi xa cách nhau hoặc là đi một ngày đường hoặc đi hết mấy canh giờ. Trên núi có suối nước ngọt, trong các đảo có Bãi Cát Vàng dài khoảng hơn 30 dặm, rộng lớn bằng phẳng, nước trong vắt nhìn tận đáy… Trước đây, họ Nguyễn lập ra đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người ở xã An Vĩnh sung vào. Mỗi năm   luân phiên tổ chức đi ra biển, cứ vào tháng Ba nhận lệnh chịu sai dịch, mang theo sáu tháng lương thực đủ dùng. Đội dùng năm chiếc thuyền câu nhỏ chở đi ra biển suốt ba ngày ba đêm liền thì mới bắt đầu đến được đảo này. thuyền dừng ở đấy thả sức thu lượm, bắt lấy chim cá mà ăn. Lại lấy được đồ vật của tàu thuyền như kiếm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thỏi thiếc, thỏi chì, súng ống, ngà voi, sáp ong, đồ chiêu, đồ sứ. Lại thu lượm cả mai đồi mồi, mai ba ba biển, hải sâm, ốc hoa rất nhiều. Đến kỳ tháng Tám thì trở về cửa Eo rồi đi đến thành Phú Xuân để giao nộp. Cân đo định hạng đủ rồi, mới bắt đầu cho bán riêng các loại ốc hoa, ba ba biển, hải sâm, rồi đến lĩnh lấy bằng cấp mà quay về.”

 Sách Đại Nam thực lục chính biên, quyển 165, đệ nhị kỷ, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn năm 1836, viết về Hoàng Sa và hoạt động khai phá xác lập chủ quyền của vương triều Nguyễn đối với Hoàng Sa như sau:

“Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hàng năm, nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng Giêng, chọn phái biền binh thuỷ quân và vệ Giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng Hai thì đến Quảng Ngãi, yêu cầu hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định thuê bốn chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa.

Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ.

Vua sai Thuỷ quân suất đội Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi. Mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ: “Minh Mạng năm thứ 17, Bính thân, Thuỷ quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ”. ”

Văn bản chữ Chăm, hiện được lưu giữ tại gia đình một hậu duệ thuộc Hoàng gia Champa ở tỉnh Bình Thuận, phản ánh việc triều đình nhà Nguyễn huy động cư dân gốc Chăm ở làng Koh, (thuộc đảo Phú Qúi, tỉnh Bình Thuận ngày nay) cử người ra cắm mốc giới ở Hoàng Sa và Trường Sa. Nội dung trên văn bản này ghi rõ:

“Plei Koh trình tấu với quan phủ về việc cử 3 chiếc thuyền đến Trường Sa và Hoàng Sa hỗ trợ việc cắm các mốc giới theo chỉ dụ. Việc này làng Koh đã tập hợp dân đinh và ngư phủ, nhưng bây giờ biển động không thể ra khơi nên làng xin quan phủ cho dời đến tháng Mười sẽ khởi hành…”. Đây là bằng chứng cho thấy không phải người Việt mà người Chăm cũng được triều đình Việt Nam huy động và sử dụng trong công cuộc xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Xin mời độc giả đón đọc Kỳ 2: Những bản đồ cổ của Việt Nam có liên quan đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
 
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Mã bảo mật   

Thống kê truy cập

  • Đang truy cập197
  • Hôm nay31,304
  • Tháng hiện tại96,683
  • Tổng lượt truy cập22,490,686

Hình ảnh nổi bật

STT 13

Mẫu đơn xin gia nhập Hội Nhà báo Việt Nam

Lượt xem:80 | lượt tải:30

STT 13

Mẫu danh sách đề nghị cấp thẻ hội viên mới

Lượt xem:80 | lượt tải:27

09/2023/NQ-HĐND

Nghị quyết ban hành Quy định nội dung, mức chi đối với tập thể, cá nhân đoạt giải trong kỳ thi, cuộc thi Quốc tế, Quốc gia thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo, thể dục - thể thao, văn học- nghệ thuật, thông tin - truyền thông

Lượt xem:558 | lượt tải:129

274/TB-VPCP

Toàn văn kết luận của Thủ tướng tại buổi làm việc với Hội Nhà báo Việt Nam

Lượt xem:554 | lượt tải:179

mẫu 1

mẫu đơn đề nghị tặng kỷ niệm chương Vì sự nghiệp báo chí Việt Nam

Lượt xem:731 | lượt tải:182

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây